Trang chủ > Tin tức - Sự kiện > Hoạt động của TCCSĐ trực thuộc > Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc

24 Tháng Chín 2022

Đoàn kết là giá trị truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước ấy đã được hun đúc trên nền tảng lòng yêu nước nồng nàn của các thế hệ hình thành qua thời gian và dần củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững, tốt đẹp và được giữ gìn, phát huy cho các thế hệ sau noi theo. Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

q-(2).jpg
Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, tháng 9/1955Nguồn: Tư liệu.

Quan điểm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

Từ khi có Đảng lãnh đạo, truyền thống đoàn kết dân tộc được nâng lên một tầm cao mới. Nó là cơ sở của ý chí kiên cường, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân, vì nước của mỗi con người Việt Nam. Chính những điểm chung đó đã kết nối mọi người thành một khối thống nhất đấu tranh vì lợi ích chung của dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên trì nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc coi đó là phương thức tạo nên sức mạnh tổng hợp của đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc và hoà hợp xã hội theo mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đoàn kết không có nghĩa là vuốt ve, xuôi chiều, ba phải, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, thờ ơ trước những cái xấu mà đoàn kết là phải lấy điều hay lẽ phải làm trọng, lấy truyền thống nhân nghĩa làm điểm tựa, lấy tinh thần phát huy dân chủ đi đôi với giữ gìn kỷ cương luật pháp làm mục tiêu thực hiện. Xuyên suốt sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Người khuyên rằng: Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh. “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc, dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời “thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”. Quan điểm này không chỉ thể hiện sự kế thừa, phát huy truyền thống đoàn kết, thân ái, bao dung của dân tộc, mà còn phản ánh sự sáng tạo của Đảng trong việc khơi dậy trách nhiệm, nghĩa vụ của người dân đối với tương lai của đất nước.

Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng cũng đã xác định 11 nhóm giai cấp, tầng lớp trong xã hội, cả trong và ngoài nước, là bộ phận cấu thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam, bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, các dân tộc, các tôn giáo và đồng bào định cư ở nước ngoài. Ngoài ra, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội khác, với tư cách là các tổ chức nòng cốt cho việc tạo lập khối đại đoàn kết toàn dân tộc thông qua việc xây dựng đoàn kết trong từng tổ chức và thành viên của nó. Từ đó, đóng góp xây dựng khối đại đoàn kết trong một tổ chức chung là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - một bộ phận trong chiến lược phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam. Đại hội lần thứ XIII của Đảng cũng khẳng định rõ hơn việc xây dựng những bộ phận nòng cốt trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, như: giai cấp nông dân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đối với giai cấp công nhân, cần xây dựng giai cấp này hiện đại, lớn mạnh; nâng cao bản lĩnh, trình độ… thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; chăm lo đời sống mọi mặt và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân…. Đối với giai cấp nông dân, cần phát huy vai trò chủ thể của họ trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; gắn xây dựng giai cấp nông dân với phát triển nông nghiệp và quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa…, để thực hiện thành công mô hình nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh. Đối với đội ngũ trí thức, cần xây dựng đội ngũ này lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới; có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo; trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, chuyên gia…. Ngoài ra, các bộ phận khác trong khối đại đoàn kết, tùy từng vị trí, vai trò cũng được Đại hội lần thứ XIII của Đảng có những định hướng cụ thể nhất định với mục tiêu chung là tăng cường, phát huy tối đa khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Có thể thấy, phương châm thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng được cụ thể hóa hơn so với các đại hội trước đó là khẳng định nhân dân là trung tâm, chủ thể của công cuộc đổi mới, đổi mới phải dựa vào dân, vì dân, do dân; Bổ sung thêm 02 cụm từ “dân giám sát” và “dân thụ hưởng” trong cơ chế, phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” làm hoàn thiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, mọi hoạt động của Nhà nước đều vì dân, do dân, phục vụ nhu cầu và lợi ích của nhân dân. Như vậy, “dân giám sát, dân thụ hưởng” là lợi ích thiết thực, chính đáng của nhân dân, cũng là động lực, mẫu số chung cho sự đồng thuận, đoàn kết trong thực hiện các giá trị thiết thực của nhân dân, đồng thời tham góp tích cực vào thực hiện lợi ích chung. Hơn nữa, với tư cách là cốt lõi của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, việc liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức phải luôn được tăng cường trên cơ sở sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và của toàn dân tộc.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nội dung mang tính chiến lược trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định, bài học đại đoàn kết toàn dân tộc mang tính thời sự, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ để đón nhận những cơ hội và thách thức của quá trình hội nhập quốc tế. Để tăng cường củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay, cần thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể như sau:

Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và chuyên đề vềTăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản trong đó, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Đó là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu, là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, khơi dậy và phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ý chí tự cường dân tộc, trong chính sách đại đoàn kết phải chú ý phát huy tính năng động của mỗi người, mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sản xuất kinh doanh, học tập và lao động đều có năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Đồng thời, phải khắc phục được những tiêu cực của kinh tế thị trường, đặc biệt tâm lý chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh làm phai nhạt truyền thống đoàn kết, tình nghĩa tương thân tương ái của dân tộc, giải quyết đói nghèo, thu hẹp khoảng cách, ranh giới giữa kinh và thượng, giữa nông thôn và thành thị, kiên quyết loại bỏ những âm mưu lợi dụng tôn giáo, tà giáo để gây rối.

Ba là, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Tích cực phòng, chống tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn tham nhũng. Biết lắng nghe, kịp thời giải quyết những kiến nghị của nhân dân. Tích cực phối hợp giữa chính quyền các cấp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội làm công tác dân vận. Để đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng thật sự là nguồn sức mạnh, cần làm cho cả hệ thống chính trị, từng cán bộ, đảng viên, trước hết là các cấp ủy Đảng và người đứng đầu cấp ủy quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

Bốn là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vai trò lãnh đạo của Đảng được khẳng định trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam với các thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Bản chất của Đảng là “Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Vì vậy, việc phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải có sự lãnh đạo của Đảng, để việc định hướng hoạt động của khối đại đoàn kết luôn thống nhất, đúng mục tiêu và hiệu quả nhất.

Năm là, đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội.

Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc giữ vị trí đặc biệt quan trọng, nhất quán và xuyên suốt trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta phải không ngừng củng cố và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trải qua các thời kỳ cách mạng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Đảng luôn xác định, “đoàn kết” là giá trị cốt lõi, “đại đoàn kết toàn dân tộc” là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
CN. Lê Thảo Ngọc – ThS. Nguyễn Thị Hương Giang Trường Chính trị tỉnh Gia Lai